Thứ Tư, 10 tháng 11, 2021

iphone giá rẻ dành cho học sinh đây

1. iphone xr


Với các bạn iphone xr không còn xa lạ gì đối với chúng ta khi chiếc điện thoại này được ra mắt vào năm 2018. Được mang cho mình chip A12 nên cấu hình nó khá mạnh. Với mức giá từ 8 triệu đến 13 triệu nên người dùng dễ tiếp cận hơn so với các dòng khác trên thị trường

Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2008

Nên thu thuế gì?

Tôi xin chia sẻ tiếp về đề tài thuế.
Bên cạnh việc thu thuế như thế nào còn là vấn đề nên thu thuế gì?

Từ góc độ một doanh nhân, tôi cho rằng việc Nhà nước thu thuế cùng giống như doanh nghiệp tiếp thị hàng hóa dịch vụ. Doanh nghiệp có thể bán nhiều loại hàng hóa dịch vụ khác nhau, có loại bán rất chạy, đắt khách, cung ứng ra không kịp nhưng cũng cũng có những sản phẩm bán mãi không ai mua, cho dù có khuyến mại rất nặng ký?!

Cách đây 18 tháng, khi nhóm chuyên gia của Ngân hàng Rothschild được hai Quỹ đầu từ Texas Pacific Group (TPG) và Intel Capital thuê vào đánh giá FPT, họ đã rà soát FPT Telecom cả tuần. Điều họ quan tâm nhất là chúng tôi có bao nhiêu khách hàng mà tháng nào cũng đều đặn tạo ra doanh thu. Trong bảng tính của họ, những khách hàng này giá trị gấp nhiều lần những khách hàng vãng lai, đến mua một lần rồi rất lâu sau mới quay trở lại.

Những khách hàng này được gọi dưới khái niệm recurring customer – “khách hàng tuần hoàn”. Những khách hàng tuần hoàn sẽ luôn tạo cho công ty doanh thu cho dù họ có đang ăn tết, đang đi nghỉ mát, thậm chí đang ngủ…

Doanh thu tuần hoàn quan trọng hơn nhiều lần doanh thu từ những khoản trả tiền một lần, cho dù những khoản trả tiền một lần có thể rất lớn. Công ty sở hữu số đông khách hàng tuần hoàn sẽ có mức thu nhập ổn định, vững chắc, không phải lặn lội thân cò, ăn đong hàng bữa.

Với tư duy như vậy, nhìn vào cách thu thuế ở Việt Nam, tôi thấy cơ quan thuế toàn nhằm vào những khoản thu một lần. Những khoản thu một lần đó lại rất dễ “né”, dễ “trốn”, dễ “nhập nhèm” và rất khó thu.

Thí dụ trong lĩnh vực bất động sản, Nhà nước không thu thuế sở hữu tài sản mà chỉ rình để đánh các loại thuế trước bạ, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập cá nhân từ việc chuyển nhượng bất động sản.

Việc cơ quan thuế áp các mức thuế trước bạ cao làm mất đi ý nghĩa của loại thuế này – đơn thuần là chi phí hành chính để làm thủ tục sang tên tài sản. Thu phí trước bạ cao, người dân sẽ không hợp thức hóa tên chủ tài sản dẫn đến rất nhiều hệ lụy tranh chấp mua bán và Nhà nước thì không có sở cứ pháp lý để quản lý hữu hiệu đất đai, nhà cửa.

Nếu chúng ta áp dụng một mức thuế trước bạ đúng với nghĩa của từ này – một khoản phí hành chính vài triệu đồng thì có lẽ bất cứ ai mua bán cũng sẽ hoàn tất cả giấy tờ pháp lý về sở hữu.

Còn trên thị trường kinh doanh các dự án bất động sản, đa phần tình trạng giấy tờ của các bất động sản là các hợp đồng góp vốn. Các hợp đồng này có thể tồn tại vĩnh viễn ngay cả khi bất động sản đã xây xong và đưa và sử dụng từ lâu. Và người ta cứ việc buôn đi bán lại các hợp đồng này mà không phải đóng bất kỳ loại thuế gì ngoài lệ phí sang tên hợp đồng do các chủ đầu tư dự án thu.

Sở dĩ người dân không mặn mà với việc làm giấy tờ chính thức vì Nhà nước thu thuế sử dụng đất một lần quá cao. Thí dụ, như căn nhà tôi đang ở tại Phú Mỹ Hưng, Q7, TP HCM, nếu làm giấy tờ ra sổ đỏ, sổ hồng thì sẽ phải đóng cỡ trên 3 tỷ đồng tiền thuế sử dụng đất. Và khi căn nhà vẫn ở dạng hợp đồng, chưa phải bất động sản thì Nhà nước cũng chả thu được thuế gì.

Anh bạn của tôi còn nghĩ ra một môn rất hay gọi là công ty hóa tài sản. Anh đã lập ra một công ty ứng với mỗi căn nhà mà anh ấy mua. Công ty không hoạt động gì, cũng không có nhân viên, không đăng ký hồ sơ thuế. Công ty chỉ sở hữu duy nhất một tài sản là căn nhà. Khi cần bán nhà, anh bạn chỉ đơn giản bán lại toàn bộ phần hùn công ty cho người chủ mới. Hoàn toàn hợp thức, không phải đóng bất kỳ loại thuế nào và cũng không phiền nhiễu chuyện công chứng hay phải làm các thủ tục sang tên sổ đỏ, sổ hồng vốn rất mất thời gian.

Rồi việc Nhà nước tính chuyện thu thuế thu nhập cá nhân từ việc chuyển nhượng bất động sản cũng là việc rất khó. Trong điều kiện mua bán trao tay, thanh toán bằng tiền mặt thì việc xác định giá mua, giá bán chính xác là chuyện không tưởng. Tôi nghĩ, Nhà nước sẽ khó mà thu được khoản thuế này.

Trong một cách tiếp cận khác, Nhà nước nên cho người dân hợp thức hóa tất cả các bất động sản rồi sau đó tiến hành thu thuế sở hữu tài sản một cách rất đơn giản với những sở cứ không thể chối cãi được như: vị trí, diện tích đất, diện tích nhà. Ở nhiều nước mức thuế này tương đương 0.5 – 2% trị giá tài sản mỗi năm. Bất động sản nằm chình ình ra đó với chủ sở hữu, vị trí, kích cỡ rõ ràng thì muốn không đóng thuế cũng không dễ.

Biểu thuế tài sản áp dụng với các mức khác nhau tùy thuộc vào vị trí của bất động sản. Ở những khu vực trung tâm thuế cao, còn ra những khu vực ngoại vi thuế sẽ thấp hơn. Áp lực thuế sẽ thúc đẩy việc sử dụng đất đai một các hợp lý. Khi đó, chủ sở hữu những căn nhà lụp sụp ở khu vực trung tâm sẽ tự động phải dọn đi ra xa hơn vì thuế ở trung tâm mắc quá. Và đương nhiên, ở khu vực trung tâm, với hạ tầng được đầu tư đắt tiền thì chỉ có chỗ cho các cao ốc với hệ số sử dụng đất tối ưu.

Nhà nước áp dụng thuế này, bất động sản nào cũng sẽ có chủ chính thức và Nhà nước tự nhiên có hàng chục triệu “khách hàng tuần hoàn” đều đặn đóng góp tiền thuế hàng năm cho ngân sách.

Giả thiết chỉ tính riêng ở Hà Nội và TP HCM với tổng số khoảng 12 triệu dân tương đương 4 triệu hộ, mỗi hộ có diện tích ở là 30m2, và giá trị nhà bình quân là 1,000 USD/m2 thì nếu thu phí tài sản ở mức 0.5%/năm thì mỗi năm Nhà nước có thể thu được 600 triệu USD từ loại thuế này.

Tương tự như vậy là thuế đối với xe hơi.
Khi cơ quan thuế, hải quan đánh thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt rất cao đối với xe hơi, các nhà nhập khẩu đã tìm trăm phương nghìn sách để giảm giá xe kê khai trên hóa đơn, biến xe mới cứng thành xe chạy rồi, ... để giảm thuế.

Chiếc xe tôi đang đi cũng vậy, là xe mới cứng nhưng được chủ gara cho đắp chiếu đủ 6 tháng rồi nhập về Việt Nam theo tiêu chuẩn của một Việt Kiều hồi hương. Chủ gara đã kiếm bẫm từ khoản chênh lệch thuế này.

Rồi Nhà nước đánh thuế trước bạ cao cũng dẫn tới việc mua bán xe mà không sang tên. Bản thân tôi cũng đã bán đi mấy chiếc xe mà không thấy chủ mới nào yêu cầu sang tên. Điều đó khiến Nhà nước không thể quản lý được chính xác chủ phương tiện.

Giống như bất động sản, Nhà nước nên giảm các loại thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế trước bạ mà chuyển sang thu thuế sử dụng xe. Nhà nước thu sẽ thuế sử dụng xe hàng năm căn cứ theo dung tích động cơ, theo số ghế, năm sản xuất.

Xe nào dùng động cơ lớn tốn nhiều xăng thì đóng thuế nhiều. Xe nào to, chiếm nhiều chỗ trên lòng lề đường thì cũng phải đóng thuế nhiều. Xe nào cũ, dễ gây tai nạn, gây ô nhiễm thì cũng phải đóng thuế nhiều hơn.

Giả thiết với mức thu thuế sử dụng bình quân là 1,000 USD/xe/năm và ở Việt Nam có 3 triệu xe đang hoạt động thì mỗi năm Nhà nước có thể dễ dàng thu được 3 tỷ USD, ngon lành hơn nhiều việc phải tranh cãi với doanh nghiệp về giá xe kê khai khi nhập khẩu.

Hơn nữa, nếu Nhà nước muốn hạn chế xe ôtô cá nhân, việc tăng thuế sử dụng xe sẽ gây áp lực tâm lý đối với người tiêu dùng hơn nhiều việc tăng các loại thuế nhập khẩu hay thuế tiêu thụ đặc biệt. Ngoài ra, thuê sử dụng xe là mức thuế nội địa theo thông lệ quốc tế, Nhà nước sẽ không vấp phải các tranh chấp thương mại với các quốc gia khác.

Nhìn một cách tổng quan, tôi cho rằng Việt Nam với hơn 85 triệu dân là một thị trường vô cùng tiềm năng cho cả Nhà nước lẫn doanh nghiệp.

Nếu Nhà nước có một cách tiếp cận khôn ngoan, phù hợp như một doanh nghiệp tiếp cận với khách hàng thì chắc hẳn Nhà nước sẽ có được những nguồn thu ngân sách rất dồn dào, ổn định, minh bạch và giảm hẳn sự nhũng nhiễu từ bộ máy hành chính.

Bạn nghĩ sao về vấn đề này?

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2008

Thuế

Trong hơn hai thập niên chuyển sang kinh tế thị trường, các hoạt động kinh doanh thương mại ở Việt Nam đã phát triển rất nhanh nhưng có một lĩnh vực vẫn phát triển rất chậm. Đó là thu thuế.

Đối với bất kỳ một chế độ nào, thuế một là công cụ cực mạnh để điều khiển nền kinh tế, điều thiết thu nhập xã hội. Khi Nhà nước tập chung sử dụng tốt công cụ thuế, Nhà nước sẽ luôn nắm đằng chuôi. Chỉ cần thu thuế tốt thì ngân sách cũng đã tăng lên nhiều lần chứ Nhà nước đâu cần phải thiết lập các doanh nghiệp nhà nước để tự kinh doanh làm gì cho mệt?

Hãy cứ để việc kinh doanh cho các doanh nghiệp dân doanh làm! Họ có động lực gắn chặt với doanh nghiệp, họ xót xa khi tiêu từng đồng tiền thì hẳn họ sẽ làm ăn hiệu quả hơn nhiều một doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu. Nhà nước chỉ nên làm doanh nghiệp một cách bất đặc dĩ ở những lĩnh vực mà tư nhân không đủ sức làm hoặc không muốn làm nhưng xã hội lại cần có để đảm bảo phổ cập hạ tầng, đảm bảo an ninh quốc phòng.

Tôi có sở thích hay lái đi Xuyên Việt, dọc đường, trên những cánh đồng lúa xanh, thường gặp những khẩu hiệu “Đóng thuế là quyền lợi và nghĩa vụ của công dân”, “Đóng thuế là vinh quang”, … Những khẩu hiệu sáo rộng như vậy đã tồn tại hàng chục năm này, nhiều nơi khẩu hiệu còn được xây kiên cố, đúc hẳn bằng bêtông cho nó bền?! Tôi nghĩ, chắc những tượng đài này không giúp được ngành thuế làm tốt hơn công việc của mình.

Theo nguyên tắc quản lý tương tác hiện đại, chính sách thuế của nhà nước cần được xây dựng dựa trên tinh thần Win – Win giữa Nhà nước và người dân. Tức là làm sao để cả Nhà nước lẫn người đóng thuế cùng có lợi, cùng thắng khi đóng và thu thuế. Chính sách của Nhà nước cần khuyến khích để người dân có lợi ích và quan tâm giúp nhà Nước thu thuế.

Tôi đứng ở các siêu thị, ở các cửa hàng bán lẻ thấy có đến gần 100% số người mua hàng đã không lấy hóa đơn hoặc vứt ngay hóa đơn mua hàng vào sọt rác. Tôi đi ăn ở nhà hàng, khi thanh toán, Quản lý thường hỏi “Anh chị có lấy hóa đơn đỏ không?”. Phần nhiều các thực khách khi tiêu bằng tiền cá nhân đã lắc đầu để còn “check-out" cho nhanh.

Điều đó diễn ra là do người dân không có lợi ích gì khi buộc các nhà cung ứng hàng hóa dịch vụ phải xuất hóa đơn tài chính hợp pháp. Không rõ, sẽ có bao nhiều doanh nghiệp, nhà hàng, cửa hàng sẽ không phát hành hóa đơn để trốn khoản thuế này? Ở đây, Nhà nước sẽ mất cả thuế VAT lẫn thuế thu nhập doanh nghiệp!

Tôi đọc trên báo nước ngoài về một nguyên lý rất hay về thuế và thu nhập. Người ta gọi nôm na là nguyên lý “Củ khoai tây nóng”. Giống như củ khoai nóng, khi ta nhận vào tay ta sẽ lập tức chuyển nó sang tay bên kia hoặc chuyển cho người khác. Thu nhập cũng vậy, Nhà nước cần khuyến khích người dân tiêu dùng thu nhập của mình, thông qua đó thúc đẩy kinh doanh sản xuất của cả xã hội. Và Nhà nước chỉ đánh thuế đối với “củ khoai nào” còn lại ở trên tay.

Ở nhiều nước, khi tính thuế thu nhập cá nhân, Nhà nước cho phép người đóng thuế được khấu trừ mọi chi phí bằng cách trình ra các hóa đơn chứng từ hợp pháp. Điều này đã biến hàng triệu người dân trở thành các nhân viên “thuế vụ tình nguyện” của Nhà nước.

Khi đó, người dân sẽ quan tâm tới việc lấy hóa đơn khi mua bất cứ hàng hóa dịch vụ gì, dù là nhỏ nhất. Người dân cũng quan tâm hơn nhiều tới việc chi tiêu bằng thẻ, bằng chuyển khoản qua ngân hàng, thay vì dùng tiền mặt vì khi chi tiêu không dùng tiền mặt sẽ dễ dàng chứng minh chi phí, dễ dàng kiểm soát chi tiêu qua các bảng kê ngân hàng.

Như vậy, khi Nhà nước chấp nhận cho mỗi cá nhân được khấu trừ chi phí như một doanh nghiệp, Nhà nước sẽ có toàn dân trở thành những người quan tâm, kiểm soát và hỗ trợ việc thu thuế. Người dân khi chi tiêu sẽ đêu đòi hóa đơn để còn được khấu trừ thuế.

Khi Nhà nước thu được đầy đủ tiền thuế từ mỗi đồng chi tiêu của người dân, tổng số thuế thu được sẽ lớn nhiều lần so với khoản Nhà nước cho người dân khấu trừ. Có lẽ đây chính là mô hình “chiến tranh nhân dân” của ngành thuế thay vì cứ chăm chăm nắm người có tóc hay tranh cãi xem 5 hay 6 triệu đồng thu nhập là đã đủ sống, đã đủ nhiều để đóng thuế hay chưa?

Thứ Năm, 29 tháng 5, 2008

Liệu Việt Nam sẽ đổi vận?

Mệnh đề "cơ hội & thử thách" luôn đồng hành với nhau, sự khác biệt là hiện thực hoá được cơ hội hay không? Hay sẽ bị thách thức đánh gục? Đó đang là hình ảnh của Việt Nam hiện nay. Không chỉ là "cuộc chiến" với lạm phát, với những cuộc khủng hoảng mini như: thị trường chứng khoán suy sụp, thị trường tiền tệ mong manh, thị trường bất động sản đóng băng, thị trường hàng hoá khi thì "sốt" mặt hàng gạo, lúc thì "sốt" xi măng...

Trả giá

Cách đây 2 tháng, khi chỉ số giá tiêu dùng ( CPI ) của Việt Nam 3 tháng đầu năm vượt 9%, buộc thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng "đăng đàn" cho dân biết chính phủ sẽ làm gì để ổn định tình hình? Sau thông điệp của ông Dũng, cũng như sự vào cuộc nhiệt tình của giới truyền thông ( tất nhiên, không thể không có sự chỉ đạo của đảng cầm quyền với giới truyền thông) những hy vọng còn lại của người dân được đặt vào thủ tướng.

Đổi lại, ông cũng có 2 quyết định đúng lúc, đó là công khai thông tin kinh tế vĩ mô một cách cập nhật và qui định không được tăng giá trên 10 mặt hàng chiến lược – thiết yếu. Bên cạnh những giải pháp mang tính lâu dài như: thắt chặt tiền tệ, cắt giảm chi tiêu và đầu tư công, hỗ trợ người nghèo. Với mục tiêu: kiểm soát lạm phát.

Nhưng kết quả đạt được chỉ là sự ngán ngẩm của toàn xã hội. Chỉ số CPI sau 1 tháng "hạ nhiệt" đã tiếp tục "leo thang" cùng với đó là sự xuống dốc không phanh của thị trường chứng khoán, hệ thống ngân hàng thì mong manh có thể "gặp vấn đề" bất kỳ lúc nào cho dù Ngân hàng nhà nước luôn khẳng định hệ thống ngân hàng đã ổn định, thị trường bất động sản đóng băng. Tất cả những vấn đề đó chưa "nóng" bằng những cơn "sốt" hàng hoá có thể diễn ra bắt kỳ lúc nào, khiến chính phủ "toát mồ hôi hột" dập tắt cũng như công khai nguyên nhân tại sao có "sốt"?

Vì sao nên nông nỗi này?

Khi 1 năm trước đây, vẫn hệ thống – thể chế đó, vẫn những con người đó, Việt Nam đã từng nghĩ đến cơ hội đổi vận thì nay trở thành thách thức chưa biết sẽ đi về đâu?

Câu trả lời không thể ngắn gọn và chính xác hơn: Trả giá!

Việt Nam phải trả giá cho việc trọng dụng những con người Tư tưởng – ý thức hệ. Những người thiếu năng lực – trình độ nhưng giỏi thích ứng với thể chế xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó, giới tri thức bị đảng cầm quyền "soi xét" nếu sử dụng và gần như không có cơ hội trở thành lãnh đạo chủ chốt.

Một xã hội, một nền kinh tế không được vận hành theo qui luật khách quan, đã "ngấm" trong lòng Việt Nam, thay vào đó là những khẩu hiệu, những chỉ tiêu, kế hoạch...mang nặng tính hình thức – duy ý chí, được áp đặt từ nhà cầm quyền.

Ngay cả khi đảng cầm quyền chấp nhận đổi mới thừa nhận kinh tế thị trường, thì quyền được làm giàu của người dân cũng bị "loại trừ" trong nhiều lĩnh vực. Về chính trị, "quyền" của người dân lại càng "mờ mịt" hơn. Nói cách khác, nhà nước trở thành "quyền lực" khống chế sức bật của cả dân tộc, người dân mất đi sự năng động – sáng tạo – dám nghĩ – dám làm. Còn những kẻ cơ hội lại ngày càng sinh sôi nảy nở, trở thành một quyền lực vô hình, từng bước kiểm soát xã hội cả về kinh tế và chính trị.

Trong một hệ thống một chiều như vậy, khi đảng cầm quyền khẳng định là đúng, thì những người biết sai cũng không có cơ hội trình bày quan điểm.Khi đảng cầm quyền đó là cơ hội là phát triển thì ai dám đưa ra các dự báo về nguy cơ về khủng hoảng.

Chính ông Dũng đã thừa nhận trước quốc hội, những khó khăn ( chứ không dám khẳng định là khủng hoảng) hiện nay là do yếu kém nhiều năm trước đây tích tụ, nay phát tác, trong khi chính phủ yếu kém trong dự báo.

Cái giá Việt Nam đang phải trả cho một thời lựa chọn sai lầm có thể được giảm nhẹ khi và chỉ khi đảng cầm quyền thực tế hơn, thay vì "sống chết" với ý thức hệ cần phát huy ngay lập tức sức sống mạnh liệt của dân tộc từ bờ vực của khủng hoảng hiện nay

Trách nhiệm

Người ta sống vì tương lai. Đó cũng là văn hoá và lựa chọn của người Á Đông , mà trong trường hợp này là người Việt Nam. Những sai lầm chỉ có một cách sửa là thay đổi càng sớm và càng triệt để thì mới lấy lại được niềm tin của xã hội.

Điều người dân muốn lúc này không phải là sự trấn an kiểu: Việt Nam có triển vọng dài hạn sáng sủa, khó khăn trước mắt có thể vượt qua, hãy tin vào đảng cầm quyền.

Thật là nực cười khi những con người đó, hệ thống đó, đã không đủ trình độ và sự tỉnh táo để nhận diện nguy cơ của đất nước khi chơi chung 1 "luật chơi" mang tên: Toàn cầu hoá. Nay lại mong muốn hay "mệnh lệnh" cho xã hội phải "tín nhiệm" mình.

Điều người dân muốn lúc này là:

Trách nhiệm của cá nhân – tổ chức đã đưa đất nước vào "vòng xoáy" khủng hoảng mang tính dây chuyền hiện nay. Đó không phải là "nhận trách nhiệm" để rồi tiếp tục "tại vị" đến hết nhiệm kỳ. Cần có những cá nhân phải từ chức hoặc bị cắt chức để những con người có năng lực hơn, dám làm hơn, dám chịu trách nhiệm cá nhân có cơ hội làm việc cho dân, cho nước.

Trách nhiệm của người đứng đầu chính phủ, vì dù sao, bộ trưởng, những tư lệnh ngành cũng chỉ là người giúp việc cho thủ tướng.Các bộ trưởng cũng không có quyền lựa chọn cấp phó của mình, nhiều ngành – lĩnh vực không thể tự quyết mà luôn phải hỏi ý kiến của thường trực chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ. Nếu trách nhiệm không rõ ràng, đến bao giờ người tài, có năng lực, dám làm, dám chịu mới được thi thố tài năng? Những kẻ yếu kém, cơ hội, mới bị thanh lọc?

Người ta không thể quên được ông Dũng đã "đối thoại" với dân như thế nào? Đã "chỉ đạo" như thế nào về các "vụ án trọng điểm" khi mới nhận cương vị người đứng chính phủ. Cũng từ những "thể hiện" bên ngoài đó, xã hội, giới đầu tư đã kỳ vọng vào ông, vào cơ hội của đất nước. Đã đến lúc ông Dũng "đáp lại" những kỳ vọng đó. Đã đến lúc ông cho nhân dân biết ông đã thực hiện những gì và chưa làm được những gì của "đối thoại". Và cũng 2 năm rồi, người dân muốn biết "chỉ đạo" nói trên của ông kết quả ra sao?

Trong thông điệp gửi nhân dân về quyết tâm kiềm chế lạm phát ,,,,,một trong những giải pháp được người đứng đầu chính phủ thông báo cho toàn dân là: giảm chi tiêu và đầu tư công. Vậy, trong 2 tháng đã qua, Việt Nam đã giảm được bao nhiêu đồng và những chuyển biến tích cực nào từ chuyện giảm đó?

Nhân dân cũng nhớ, thủ tướng là người ký các quyết định cho thành lập "thử nghiệm" 8 tập đoàn kinh tế nhà nước, kể từ tháng 8 năm 2006 đến năm 2007. Vặy, kết quả thử nghiệm đó ra sao? Cần những con số, những đánh giá độc lập về các tập đoàn kinh tế nhà nước để người dân biết, mồ hôi – công sức của mình được quản lý hiệu quả, không có rủi ro. Để môi trường kinh doanh không bị méo mó làm cho đất nước mất khả năng hấp dẫn, chỉ vì "quyền" kinh doanh và tác động đến chính sách của các tập đoàn này.

Truyền thông & Tiếng nói của nhân dân

Những ngày gần đây, ngoài các vấn đề kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến đại bộ phận nhân dân thì có rất nhiều "sự kiện" liên quan đến truyền thông và Tiếng nói của nhân dân.

Đó là "sự kiện" ông Nguyễn Việt Tiến được minh oan và đồng hành với việc minh oan trên có 2 nhà báo đã trở thành can phạm. Việc "minh oan" cho ông Tiến và "tạm giam" các nhà báo dù muốn hay không đã tạo ra hiệu ứng không tích cực đối với đất nước.

Nói trong "khuôn khổ" Việt Nam là như vậy, nhưng lòng người thì không bị giới hạn bởi khuôn sáo nào hết. Người dân thật khó lý giải, một ông thứ trưởng, phụ trách 1 lĩnh vực có cấp dưới bị kết án, ảnh hưởng đến quan hệ giữa Việt Nam và các nhà tài trợ, lại "vô tội"? Còn những nhà báo, những người có trách nhiệm thông tin đến xã hội sự kiện lại "có tội"? Và càng khó hiểu hơn, khi giới truyền thông sau một hai ngày đưa tin về sự kiện "hot" này bất ngờ im hơi nặng tiếng.

Chẳng nhẽ, người dân cứ phải đóng thuế cho ngân sách để duy trì hệ thống truyền thông nhà nước trong khi muốn biết thông tin "sốt dẻo" nhiều khi là chính xác từ các thông tấn xã ...vỉa hè sao? Đó là chưa nói đến cái giá Việt Nam phải mang khi thế giới "đặt điều" rằng truyền thông Việt Nam "thỉnh thoảng" bị "bịt miệng"

Đó còn là một vấn đề hệ trọng với đất nước: Điều chỉnh địa giới hành chính Hà Nội và một số tỉnh. Vẫn biết là Hà Nội, chật hẹp, nhu cầu phát triển hay mong muốn về một thủ đô "tầm cỡ" là mẫu thuẫn cần giải quyết. Nhưng có nên "đùng một phát" thông qua ở quốc hội, mà "người trong cuộc" cụ thể ở đây là dân Hà Nội, Hà Tây và Hoà Bình – Vĩnh Phúc không hề biết tương lai cuộc sống của mình ra sao? Mà "chất lượng" cơ quan quyền lực cao nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng nhân dân thế nào, chẳng phải bàn dân đều biết. Thử hỏi, 70% đại biểu "nghiệp dư" có thể "sáng suốt" mà đại diện cho lợi ích của đại bộ phận người dân thấp cổ bé họng hay bị lobby ( trực tiếp hay không trực tiếp ) của các nhóm lợi ích?

Vì chỉ có là người trên sao Hoả mới không biết "làn sóng" đầu cơ ở những tỉnh được "điều chỉnh" về Hà Nội. Và càng là "người nhà nước" thì càng biết có rất nhiều "dự án" của các tổng công ty – tập đoàn kinh tế ở khu vực có thể được "lên đời" này.

Với những người nông dân, khả năng "lên đời" từ "điều chỉnh" là không phải bàn cãi, những lợi hay hại khi "ném" cho những người gần như cả đời làm nông nghiệp "một đống tiền" và "đẩy" họ khỏi ngôi nhà, mảnh vườn, thửa ruộng, nghề nông mà họ gắn bó bao đời? Bất ổn xã hội, làn sóng di dân cơ học cũng từ đó mà lên, thủ đô mới "rộng hơn" những sẽ tiếp tục gặp phải những vấn đề trước đây, liệu có đáng để "đánh đổi"?

Ở một góc đánh giá khác, người dân có quyền "chất vấn": Phải chăng, mở rộng Hà Nội là hình thức "hà hơi tiếp sức" cho những tập đoàn kinh tế - tổng công ty đang "thực tập" kinh doanh đa ngành đa nghề nhưng sớm "mắc cạn" có thể "phá sản" vì đầu tư tài chính – bất động sản? Một sự "cứu" gián tiếp nền kinh tế, vốn đang "ủ bệnh" do chứng khoán hoá và kinh doanh đa ngành vô tội vạ?

Nếu vậy, xin đừng "bao to búa lớn" khi dân "đầu cơ" hàng hoá để lo cho thân mình trước.

Một "vòng xoáy" lo cho thân mình bằng mọi giá như vậy sẽ tiếp tục "đóng băng" tiền của vào bất động sản, vàng hoặc "tích trữ" hàng hoá. Nền kinh tế không những "giảm tốc" nhanh chóng, nhiều doanh nghiệp lay lắt ( do luật phá sản đã "phá sản" trước thực tế), thất nghiệp gia tăng, giá cả tiếp tục "leo thang" , mà suy cơ bất ổn xã hội đã hiện hữu.Những vấn đề dân sinh như vậy cũng "quá đắt" chứ đừng nói đến "chạy chức – chạy quyền – chạy dự án, những điều "không thể thiếu" khi tách – nhập.

Ngôi sao hoà bình

Ngoài những thách thức từ "bên trong" như trên, Việt Nam cũng phải đối diện với nguy cơ từ bên ngoài. Đó không chỉ là tranh chấp ngày càng "trực diện" về lợi ích giữa Việt Nam và Trung Quốc. Mà nguy cơ cao nhất là những quốc gia khác thực hiện cải cách triệt để nhằm biến cuộc khủng hoảng mang tính toàn cầu hiện nay thành vận hội phát triển của họ. Rõ ràng, Việt Nam vừa có chút hy vọng đổi vận , nay lại bị cạnh tranh gay gắt và có thể bị bỏ lại phía sau mãi mãi.

Lúc này đây, người Việt Nam ( tôi không muốn nói đến chính phủ ) phải vượt qua những rào cản nội tại để biến Việt Nam thành Ngôi sao Hoà Bình.

Cách đây ít tháng có một tiến sỹ ở Viện nghiên cứu chiến lược – Bộ công thương sau khi đọc một số bài viết của tôi về kinh tế và thị trường chứng khoán đã hẹn gặp tôi để anh em có dịp trao đổi. Là người trong "bộ máy", anh đã chia sẻ với tôi nhiều suy nghĩ của "bên trong", từ chuyện báo chí tư nhân để chống tham nhũng, rồi quyền thể hiện quan điểm của người dân sao người dân không thực hiện, đến những vấn đề về "quyền lực" không ngai của các tập đoàn kinh tế nhà nước, mà như anh nói là "em đừng đụng vào tổ ông đó", vai trò của kinh tế tư nhân....

Qua đó, có thể thấy, người Việt Nam "đau đáu" về vị thế của đất nước nhưng làm sao để hiện thực hoá "khát khao" đó thì vẫn cần "chìa khoá". Trong khi, "chìa khoá" chính là sức mạnh đồng thuận của chính người dân, lại cứ bị phân tán, do sợ hãi.

Con đường của Việt Nam chỉ có thể là:

Về đối nội:

Một là, đảng cầm quyền cần thanh lọc chính mình, thoát khỏi "dây trói" của ý thức hệ. Một tín hiệu đáng lưu ý, trong thời gian gần đây nhiều chủ tịch uỷ ban nhân dân các địa phương được trẻ hoá, "đội hình" 5X – 6X "phủ sóng" báo hiệu 1 sự trẻ hoá gần như toàn diện của đảng cầm quyền trong thời gian tới ( tất nhiên trừ các bộ sức mạnh như công an – quốc phòng). Đội hình này, ngoài những "chim đầu đàn" như ông Nguyễn Thiện Nhân, Hoàng Trung Hải, xuất hiện thêm những cái tên rất đáng chú ý như: Đinh La Thắng, Vũ Đức Đam,,,,Đương nhiên, ông Dũng dù không công khai đã được nhận diện là "anh cả".

Hai là, Thay vì tìm cách "kiểm soát" đầy "tinh vi" truyền thông, đã đến lúc Việt Nam "nghĩ lớn": Truyền thông là cánh cửa đưa Việt Nam đến thế giới phát triển, không phải tự nhiên Anh – Mỹ là những quốc gia hàng đầu về truyền thông.Không nên "bỏ một giỏ" vào hệ thống truyền thông nhà nước, khi tư nhân làm hiệu quả hơn. Hãy luật hoá để tư nhân được danh chính ngôn thuận đầu tư – kinh doanh truyền thông – in ấn – xuất bản ở Việt Nam sở hữu ở nước ngoài.

Ba là: Không thể trao tài sản quốc gia vào tay những doanh nghiệp nhà nước. Đã đến lúc toàn cầu hoá đội ngũ nhân sự SCIC, biến SCIC thành một tổ chức đầu tư theo mệnh lệnh thị trường. Không tiếp tục "thử nghiệm" mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước, cũng như biến các lĩnh vực động quyền nhà nước trong đó có tài nguyên quốc gia thành môi trường cạnh tranh, thúc đẩy các tập đoàn kinh tế tư nhân tham gia vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Khi kinh tế tư nhân mạnh lên, khu vực FDI ngày một "bành trướng" doanh nghiệp nhà nước phải tái cấu trúc để tồn tại.

Bốn là: Thúc đẩy các viện – trung tâm nghiên cứu và phát triển tư nhân, của các tập đoàn đa quốc gia. Mô hình hiện nay của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn, hoặc Viện nghiên cứu phát triển ( IDS ) cần được phát triển . Đặc biệt là các trung tâm nghiên cứu và phát triển ( R&D) của các tập đoàn đa quốc gia, cần nhanh chóng thu hút họ đến Việt Nam.

Năm là: Đảng cầm quyền, thúc đẩy các doanh nhân thành đạt trên thương trường tham gia điều hành đất nước với vị trí tỉnh trưởng hoặc bộ trưởng trong chính phủ. Trường hợp ông Nguyễn Quốc Kỳ, tham gia chính trường gần đây thể hiện xu thế này. Đáng tiếc, ông Kỳ, đúng hơn là những người "mời ông " tham chính đã không đủ bản lĩnh thực hiện ý tưởng của mình. Đất nước đã "chơi" toàn cầu, cần những con người của thương trường trên chính trường.

Sáu là: Bằng mọi giá, đảng cầm quyền, sức ép của nhân dân phải tách tư pháp độc lập. Sự việc ông Nguyễn Việt Tiến và các nhà báo càng đòi hỏi điều đó.

Bảy là: Tập trung nguồn lực, chính sách, tạo "lực đẩy" cho nông nghiệp Việt Nam có một vị thế "chi phối" trên thị trường nông nghiệp toàn cầu. Khi nguy cơ khủng hoảng lương thực – thực phẩm ngày một rõ nét, không có lý gì một quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đàu thế giới như Việt Nam không vươn lên "kiểm soát" thị trường, ấn định "luật chơi"?

Về đối ngoại:

Một là: chúng ta đang bị Trung Quốc tạo áp lực từ nhiều phía. Do đó, cần gửi đến "anh láng giềng" này thông điệp: Hoặc chúng tôi chơi với anh và các cường quốc khác hoặc không có anh. Thực tế Trung Quốc là một thị trường khổng lồ, một thách thức mà giới doanh – thương Việt Nam cần thâm nhập bằng quyết tâm sắt đá.

Hai là: Duy trì quan hệ "đối tác chiến lược" với Mỹ - Nhật – Nga là cách tốt nhất "bảo vệ" lợi ích của Việt Nam trước Trung Quốc. Xác định Việt Nam là một quốc gia nhỏ, thân thiệp, nguồn nhân lực dồi dào, không có tham vọng cạnh tranh hoặc đe doạ Mỹ - Nhật. Từ đó thu hút công nghệ cao và công nghệ nguồn, đây là con đường không dễ dàng cần cả khát khao và quyết tâm của giới trẻ Việt Nam. Lợi thế của Việt Nam trong cuộc đua thu hút công nghệ với 2 "siêu cường" Ân – Trung không ngoài yếu tố "Việt Nam không cạnh tranh hoặc đe doạ đến lợi ích và vị trí của Mỹ - Nhật"

Ba là: Việt Nam cần có thực lực thương trường, trong khi chạy đua thu hút công nghệ, Các doanh nhân, nhà nghiên cứu và bộ máy chính quyền cần tạo ra sức mạnh tổng lực cho ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển. Đây là chìa khoá để Việt Nam có tiếng nói trọng lượng trên thị trường nông sản toàn cầu. Đại diện cho các nước nghèo ở châu Phi – Châu á – Mỹ la tinh, tạo ra Tiếng nói bảo vệ lợi ích của Khối. Đồng thời đây là thị trường hàng hoá – văn hoá – tư tưởng của Việt Nam.

Bốn là: Chính phủ cần hậu thuận mạnh mẽ cho các doanh nhân – các tập đoàn kinh tế tư nhân vươn ra thị trường thế giới. "chia bánh" trong các lĩnh vực: truyền thông, tài chính – ngân hàng, năng lượng – tài nguyên, công nghệ sinh học....Tham gia thị trường thế giới là con đường để doanh nghiệp Việt Nam tồn tại và phát triển.

Năm là: Tham gia các tổ chức khu vực ( đa phương – song phương) để có thể bảo vệ lợi ích của chính Việt Nam và các quốc gia khác. Không tham gia, đồng nghĩa với tự cô lập, tước bỏ lợi ích của chính mình. Đặc biệt, các công dân Việt Nam nên tham gia và phát triển sự nghiệp tại các tổ chức phi chính phủ và chính phủ. Chỉ khi "hiểu" đối tác, Việt Nam mới phát triển được chính mình.

Sáu là: Bảo vệ lợi ích của cộng đồng kiều bào ở nước ngoài. Kiều bào chính là chìa khoá để hàng hoá – văn hoá – tư tưởng Việt Nam Thâm nhập các thị trường một cách bền vững. Phát triển các trung tâm văn hoá Việt Nam ở nước ngoài. Và thu hút người nước ngoài lựa chọn Việt Nam để sống – làm việc – nghỉ dưỡng, đơn giản là Việt Nam hiếu khách – an toàn thì không có lý gì không thực hiện chiến lược đó.

Trên đây là những suy nghĩ của tôi về tình hình hiện nay cũng như những giải pháp chúng ta có thể theo đuổi để đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Đổi vận hay không tuỳ thuộc vào nỗ lực của chính chúng ta, cơ hội vẫn còn đó, nếu lại để cơ hội "dìm" đất nước chúng ta trở về "vạch xuất phát" liệu số phận dân tộc đi về đâu?

Rất mong các bạn ISE cho mình thêm những ý kiến, vì đã đăng quá nhiều mà không thấy ai lên tiếng.

Thứ Tư, 28 tháng 5, 2008

Bầy cừu tháo chạy

Sự suy thoái của chứng khoán Việt Nam vẫn tiếp diễn không có điểm dừng khi chỉ số VnIndex rơi tự do. Các đáy bảo vệ được kỳ vọng như 600, 500, 450, ... lần lượt bị phá vỡ, viễn cảnh VnIndex rớt xuống dưới 300 - 350 điểm là rất hiện thực.

Khi lạm phát 5 tháng đầu năm lên tới gần 15.96%, lãi xuất cho vay cùng các khoản phí dịch vụ lên tới 22% thì dường như không có phép lạ nào cứu được chứng khoán. Kênh giữ tiền sinh lời nhất không còn là chứng khoán hay bất động sản. Những người thận trọng thì gửi tiền vào ngân hàng còn các nhà đầu tư đã nghiền với nhịp "tăng-gô" đã chuyển cuộc chơi sang thị trường vàng, thị trường ngoại tệ.

Một xu hướng khác là dòng tiền của các nhà đầu cơ đổ vào thị trường vật liệu, hàng hóa. Cho nên, không có gì đáng ngạc nhiên khi hết gạo rồi đến xi măng, sắt thép, ... đều lên cơn sốt. Áp lực của lạm phát khiến ai đó cũng muốn mua cái gì đó để dự trữ, thay vì giữ ... tiền mặc dù có lẽ còn lâu mới cần dùng đến.

Cá nhân tôi đang xây nhà cùng vậy, chủ thầu liên tục giục tạm ứng "kẻo giá vật liệu sắp tăng vài lần". Cả sợ, tôi cũng đành ứng tiền để chủ thầu chất đống gạch, đá, xi măng, ... cho vài tháng tới. Câu chuyện tương tự đang diễn ra với hàng chục triệu gia đình Việt Nam. Mỗi người chỉ mua thêm vài cân gạo là có thể khiến thị trường khan hiếm một cách giả tạo.

Có lẽ, tâm lý tích trữ mọi thứ vốn là đặc trưng của thời bao cấp nay đã ngấp nghé quay trở lại.

Chúng ta còn nhớ cách đây vài thập kỷ, mỗi người dân, ai cũng đều cố mua cái thùng đựng gạo thật to, sắm cái thùng chứa nước thật bự rồi đua nhau tậu xiệc-vôn-tơ công suất lớn. Những nỗ lực cá nhân đó làm cho dãy xếp hàng mua gạo dài hơn, vòi nước thì tận đêm khuya mới chảy còn ánh sáng điện thì lúc nào cũng lờ mờ.

Trong những thời điểm nhạy cảm như hiện nay, tâm lý bầy đàn của người Việt trở thành một hiểm họa đối với cả nền kinh tế. Chỉ trong vài giờ, người người đi săn lùng đổi USD khiến tỷ giá trên thị trường tự do tăng vọt đến 6 - 8%. Cũng vẫn là những người mua đơn lẻ, chỉ đổi vài ba trăm USD. Giá USD lên tới 17,600. Thật đáng sợ.

Đối với mỗi cá nhân, việc giá USD biến động 1 - 2 phần trăm có lẽ cũng không gây ảnh hưởng gì nhiều. Nhưng tâm lý bất ổn khiến tất cả ùa đi mua USD sẽ đẩy môi trường kinh tế lẫn các doanh nghiệp vốn đã rất khó khăn vào ngả trầm kha mới.

Và rồi, như đợt USD đại hạ giá cách đây vài tháng, sau khi người dân bán tháo USD với giá 15,000 - 15,300, cơn sốt hạ nhiệt nhanh như khi nó tới, để lại những con người tiếc nuối ngẩn ngơ.

Giá như trong thời gian qua, mỗi người phản ứng một cách bình tĩnh hơn, từ tốn hơn trước những biến động thị trường thì có lẽ thị trường chứng khoán, thị trường hàng hóa cũng như nền kinh tế nói chung sẽ không bất ổn đến như vậy.

Giống như một sự cố va chạm trên sân vận động, mỗi người càng lồng lộn, càng cố gắng trốn chạy thì nguy cơ bị đè bẹp, bị dẫm đạp càng lớn, cơ hội sống sót càng thấp.

Bạn sẽ hành động như thế nào?

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2008

Ngày 1/06/2008 Xuân Đính Hôn.

Alo, các bạn K 98, Ngày 1/6/08 Xuân Đinh Hôn, tại Long An. Xuân Nhờ mình Thân mời các bạn từ ISE 98 tham gia dự buổi đính hôn của Xuân.

Rất mong các bạn có mặt.

Moible của Xuân: 0903712403. Các bạn chia sẽ niêm vui với xuân qua số moible đó nhé. Chúc các bạn vui vẽ và thật nhiều hạnh phúc.

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2008

Chứng khoán gục ngã

Ở Việt Nam, chứng khoán đã ra mắt các nhà đầu tư nhân dân như một trò chơi kiếm tiền nhanh, nhiều người đã coi chứng khoán là cơ hội đổi đời. Dân ta đã đầu tư chứng khoán theo phòng trào, giống hệt như đã từng nhà nhà đi nuôi chim cút, nuôi chó nhật, ... rồi gần đây hàng trăm ngàn người trở thành nạn nhân của các ngón lừa đảo đầu tư vàng, ngoại tệ trên mạng.
Thông thường, người ta trở nên cả tin, trở nên nhẹ dạ hơn bao giờ hết khi bị lòng tham chi phối. Mọi người đều kỳ vọng vào những mức lợi nhuận mà không một ngành sản xuất kinh doanh tử tế nào có thể đáp ứng nổi. Tôi luôn nói với mọi người là bất kỳ hoạt động đầu tư nào hứa hẹn đem lại trên 5% mỗi tháng đều chứa đựng những nguy cơ, mạo hiểm tiềm tàng hoặc yếu tố lừa đảo.
Trở lại sàn chứng khoán Việt Nam, có những giai đoạn, chỉ số PE của các công ty niêm yết lên tới 70 - 80 mà các nhà đầu tư vẫn mua ào ào. Mọi người ôm chứng khoán vào với niềm tin là sau vài phiên (T + 3) có thể bán được và thu về 15 - 20% lợi nhuận. Chứng khoán bỗng nhiên có tính thanh khoản như tiền và người mua coi đây như một hình thức "gửi tiết kiệm" với lãi xuất hàng chục phần trăm mỗi tuần.
Khi đã coi chứng khoán như tiền, không ai quan tâm đến giá trị thật của chứng khoán nữa mà chỉ quan tâm xem chứng khoán này ngày mai có "cởi trần" (tăng giá trần) hay không mà thôi. Ai cũng nghĩ mình là người khôn ngoan nhất, mình sẽ là người rút chân được ra đầu tiên trước khi cơn hồng thủy ập tới.
Các công ty niêm yết với số thăng dự vốn khổng lồ lại tiếp tục đổ hết vào quanh vòng chứng khoán. Ai cũng khấp khởi với lợi nhuận tăng nhanh hàng tuần. Có những công ty tự hào ôm được lượng chứng khoán rẻ tuyên bố "muốn có mức lợi nhuận bao nhiêu cũng được, chỉ cần thanh khoản danh mục đầu tư".
Các công ty đua nhau trình ra những bản báo cáo tài chính với chỉ số EPS cao ngất ngưởng. Các nhà đầu tư thì choáng váng, mờ mắt không phân biệt được đâu là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh truyền thống, đâu là lợi nhuận từ đầu tư tài chính. Đối với một công ty tay ngang, lợi nhuận từ đầu tư tài chính chỉ đáng giá bằng một phần mười lợi nhuận sản xuất kinh doanh truyền thống. Lợi nhuận từ đầu tư tài chính rất mong manh, hôm nay có thể kiếm được hàng tỷ nhưng không có gì bảo đảm là ngày mai còn kiếm được như vậy, chưa kể còn có thể lỗ gấp nhiều lần những gì kiếm được ngày hôm nay.
Nhiều công ty thuộc hàng blue chip trên sàn chứng khoán đã liên kết với nhau chơi trò chơi cổ đông chiến lược. Công ty A bán cho Ngân hàng B 10% cổ phần, Ngân hàng B bán cho Công ty C 10% cổ phần rồi Công ty C lại bán cho Công ty A 10% cổ phần. Cả 3 công ty là những nhà đầu tư chiến lược của nhau. Hàng Quý, các công ty lần lượt bán ra cổ phần đã "đầu tư chiến lược" ra và kê khai các khoản lợi nhuận ảo khổng lồ. Với cùng một đồng tiền, qua vòng quay chứng khoán, nó được nhân lên hàng chục lần. Ai cũng đếm đống giấy chứng nhận cổ phần trong tay với tiền triệu.
Câu chuyện này tương tự như có hai anh nông dân, một anh gánh khoai, một anh gánh ngô ra chợ. Đến nơi, chợ vắng chỉ có hai người. Anh bán khoai có một đồng tiền, đến trưa, buồn miệng mua đồng ngô ăn chơi. Rồi đến anh bán ngô mua lại một đồng khoai ăn cho đỡ đói lòng. Đến chiều, cả hai anh đã mua bán hết ngô khoai và ra về vẫn với một đồng tiền.
Lúc đầu, các Quỹ đầu tư nước ngoài khi tham gia thị trường Việt Nam rất dè dặt. Nhưng rồi, khi thấy các lý thuyết đầu tư bài bàn không đúng ở thị trường Việt Nam khi người người xông vào thị trường, nhiều Quỹ cũng chuyển sang phương thức đầu tư chụp giật. Cả thị trường gồm nhà đầu tư có tổ chức lẫn nhà đầu tư cá nhân nhân đều mua tranh bán cướp.
Do lợi nhuận quá cao, do niềm tin chứng khoán tiếp tục tăng giá, do lòng tham, nhiều nhà đầu tư đã áp dụng công thức repo chứng khoán xoay vòng để lấy tiến mua tiếp chứng khoán rồi lại đem chứng khoán mới mua repo tiếp. Vòng xoay này cuốn theo hàng chục ngàn tỷ đồng của các nhà băng vào thị trường chứng khoán. Chỗi repo này sẽ trở thành gánh nặng ngàn cân đối với cả nhà đầu tư lẫn ngân hàng khi thị trường có dấu hiệu chững lại.
Thị trường chứng khoán nóng quá tác động tiêu cực đến cả nền kinh tế. Khi mà ai cũng nhìn thị trường chứng khoán như mỏ vàng lộ thiên thì không ai còn an phận tiếp tục công việc truyền thống của mình nữa. Trong thời gian ngắn, hàng trăm công ty chứng khoán được xin và cấp phép đã nói lên sự khát khao của các nhà đầu tư. Các chỉ số chứng khoán đều ở mức báo động khi nhà đầu tư mù quáng đổ tiền lên sàn.
Và cuối cùng, Chính phủ đã ra tay hòng giảm nhiệt cơn sốt chứng khoán mà báo chí gọi là ngăn chặn quả bong bóng sắp nổ. Cần phải nhìn nhận một cách tỉnh táo thị trường chứng khoán là một thực thể hết sức nhạy cảm được xây dựng trên cơ sở niềm tin. Kim tự tháp lòng tin vô cùng mong manh dễ vỡ. Các tác động đến thị trường chứng khoán mà làm suy giảm lòng tin của nhà đầu tư sẽ lập tức dẫn tới cuộc tháo chạy hỗn loạn mà hậu quả không thể lường được.
Tôi rất tâm đắc câu nói: một nửa cái bánh mỳ vẫn là một nửa cái bánh mỳ, nhưng một nửa niềm tin thì không còn là niềm tin nữa. Niềm tin là một thể toàn vẹn mà chỉ cần sứt một mẩu nhỏ thì toàn bộ những gì được xây dựng trên cơ sở niềm tin đều sụp đổ.
Trong vài tháng, Nhà nước đã đưa ra một loạt các biện pháp giảm nhiệt thị trường giống một thầy thuốc kế cho bệnh nhân những đơn thuộc loại đặc trị rất nặng mà không tính tới thể chất của con bệnh. Các đơn thuộc này đều tập trung vào việc giảm lượng tiền lưu thông trên thị trường, siết chặt dòng tiền chảy vào chứng khoán, siết chặt cho tín dụng đối với những thị trường liên thông với chứng khoán như bất động sản, ngoại hối.
Chúng ta quên mất một điều là con bệnh đang quen được uống nước nhiều, việc đóng vòi nước một cách cấp tập khiến cho con bệnh bị sốc phản vệ.
Nhìn vào cách điều trị bệnh của chúng ta và của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) sẽ thấy các biện pháp hoàn toàn trái ngược nhau. FED liên tục giảm lãi xuất nhằm lùa tiền ra ngoài thị trường, khuyến khích người dân đầu tư, chi tiêu thay vì gửi tiền ở ngân hàng. Lãi xuất của FED giảm đến mức thấp nhất trong vòng 4 năm gần đây.
Bên cạnh đó, Chính phủ Mỹ đệ trình chính sách ưu đãi thuế nhằm tăng cường tiêu dùng và bơm một lượng tiền mặt cực lớn ra để cứu thị trường. Họ ý thức rõ là nếu để xảy rất bất kỳ một ngưng trệ nào trong vòng quay của thị trường tiền tệ sẽ ảnh hưởng một cách tiêu cực đến toàn bộ các ngành sản xuất thương mại và gây ra đổ vỡ dây chuyền. Các tập đoàn tài chính Mỹ và Tây Âu đã kê khai những khoản lỗ kỷ lục nhưng với sự trợ giúp của Chính phủ, không thấy ngân hàng nào mất khả năng thanh toán và cũng chưa có ai phá sản.
Ở Việt Nam, các biện pháp cấp tập như khống chế tỷ lệ cho vay chứng khoán (28.05.2007), tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc (16.01.2008), phát hành tín phiếu bắt buộc (16.02.2008), giãn tiến độ mua ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài đã cắt hẳn nguồn cung tiền cho thị trường chứng khoán.
Hầu hết các tổ chức tín dụng phải chạy đua cật lực để đảm bảo tỷ lệ cho vay chứng khoán, chạy đua gom tiền mua tín phiếu bắt buộc, ... Các ngân hàng ở vào tình trạng khan tiền hơn bao giờ hết. Mất nguồn cung tiền, quả bong bóng chứng khoán đã nổ tung.
Ngay sau tết âm lịch, chỉ trong vòng 1 tuần, các cổ phiếu chủ chốt đã mất giá trên 20% khiến các nhà đầu tư hoảng loạn. Sự hoảng loạn bao trùm lên cả nhà đầu tư có tổ chức lẫn nhà đầu tư cá nhân. Ai cũng cố đẩy cổ phiếu của mình ra sàn và khi ai cũng muốn bán thì hẳn không ai muốn mua. Không ai kịp có phản ứng tích cực. Hàng chục ngàn tỷ đồng bộc hơi theo VnIndex.
Khi chứng khoán rớt giá cỡ 30% thì lập tức tác động mạnh đến những cổ phiếu đang được repo ở ngân hàng. Xuống dưới giới hạn cho phép, các ngân hàng buộc con nợ hoặc đắp thêm tài sản hoặc phải bán cổ phiếu. Chứng khoán cứ xuống một vài điểm thì càng có thêm nhiều cổ phiếu đang thế chấp phải bán ra. Các cổ phiếu nào trước đây có tính thanh khoản cao, giá trị cao, được thế chấp nhiều thì càng bị áp lực lớn.
Chuỗi repo đổ sụp khi các con nợ không còn giải pháp nào ngoài việc để ngân hàng cưỡng bức bán cổ phiếu. Giống như quả bóng tuyết, càng lăn thì quả bóng càng to và các ngân hàng trở thành những "nhà đầu tư bất đắc dĩ" lớn nhất.
Các ngân hàng có cho vay chứng khoán đều thiệt hại lớn vì không thể thu hồi nợ khi chứng khoán mất giá. Họ càng ép các con nợ thì áp lực xả chứng khoán lên sàn càng lớn, giá càng xuống thấp thì càng nhiều cổ phiếu xả ra. Trong sự hỗn loạn đó, chứng khoán như đồ bỏ, không còn khái niệm giá trị nội tại, PE, EPS, ... Chỉ còn một áp lực là phải có tiền.
Tổn thất của ngân hàng dẫn đến ảnh hưởng nặng nề khả năng thanh toán. Các ngân hàng buộc phải huy động vốn bằng mọi giá dẫn đến cuộc đua lãi xuất huy động. Trong vòng 4 tháng, lãi xuất huy động đã tăng từ 0.7%/tháng lên 1.2%/tháng. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước khống chế trần lãi xuất huy động là 12%/năm nhưng lệnh này chỉ tác động đến người gửi tiền nhỏ lẻ. Đối với các khoản tiền gửi lớn, khách hàng đều yêu cầu ngân hàng lập hợp đồng tín dụng riêng rẽ với mức lãi xuất 14% - 15%/năm.
Lãi xuất đầu vào tăng khiến các ngân hàng xiết chặt đầu ra. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có độ tín nhiệm thấp đều không còn khả năng vay được tiền từ ngân hàng. Còn các doanh nghiệp lớn nếu muốn vay thì lãi xuất lên đến 18 - 22%/năm. Trong nhiều giai đoạn, các ngân hàng chỉ đem tiền cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi xuất tới 30%/năm.
Dòng tiền giờ đây không chảy vào sản xuất, không chảy vào đầu tư mà chỉ chảy vòng quanh các ngân hàng. Khi lãi xuất lên tới hàng chục phần trăm, không ai còn muốn đầu tư tiền vào những nơi rủi ro nhưng chứng khoán, thậm chí cùng không còn muốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Khẩu hiệu "Cash is King - Tiền là Vua" có nghĩa hơn bao giờ hết, và mọi người chỉ muốn gửi vua vào ngân hàng. Khi dòng tiền không hỗ trợ sản xuất kinh doanh, nhiều ngành nghề có mức sinh lời thấp sẽ ngưng trệ dẫn đến phản ứng dây chuyền tiêu cực cho nền kinh tế.
Tác động kép của thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ làm bức tranh kinh tế Việt Nam 2008 rất xấu. Nếu Chính phủ không có những biện pháp hợp lý thì hậu quả rất khó dự đoán.
Hàng ngày, nhìn trên website của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các công ty niêm yết cứ khất lần việc công bố báo cáo tài chính Quý 1 với nhiều lý do như "bị virus máy tính", "bận tham gia hội chợ", "nhiều sổ sách phải tổng hợp", ... cùng hàng loạt những bản giải trình kết quả kinh doanh là có thể hiểu được phần nào sức khỏe của các công ty.
Khi siết chặt chứng khoán, nhiều người đặt ra tiền đề hy sinh chứng khoán để cứu lạm phát vì lạm phát ảnh hưởng đến cuộc sống của mấy chục triệu người còn chứng khoán chỉ có 300 ngàn tài khoản. Nhưng 300 tài khoản đấy liên quan đến gần 50% GDP là không thể xem nhẹ.
Chứng khoán, tiền tệ, bất động sản là những thị trường liên thông với nhau. Khi chứng khoán gục ngã, bất động sản đóng băng thì tiền tệ lên cơn sốt. Liệu nền kinh tế sẽ chịu đựng thế nào thì mạch máu tiền tệ cứ tiếp tục sôi?

Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2008

Nỗi buồn chứng khoán


Chỉ sau vài tháng suy thoái, chỉ số chứng khoán VnIndex đã sụt xuống mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua. Từ chỗ nhà nhà hào hứng lên sàn, giờ đây sàn chứng khoán đìu hiu hơn một phiên chợ chiều. Thậm chí nhiều người không buồn tới nhận cổ tức vì chúng quá còm cõi so với số vốn đã đầu tư.

VnIndex sụt từng ngày theo biên độ 1%, 2%, tạo thành một áp lực tinh thần đè nặng lên các nhà đầu tư, các công ty chứng khoán, các ngân hàng. Như một người bị bóp cổ, cái chết đến một cách từ từ, hiện hữu, không lối thoát.

Nhiều nhà đầu tư cho rằng, có khi chịu đựng một cú đột quỵ hay một “ngày thứ ba đen tối” còn dễ chịu hơn nhìn vốn đầu tư của mình bị mài mòn dần dần.

Đột quỵ rồi còn có cơ may hồi sinh, ngã xuống vực rồi còn có cơ hội leo lại dốc chứ chết từ từ là một sự đày đọa thể xác đến tận cùng, như hình phạt “tùng xẻo” thời phong kiến.

Cơn sốt chứng khoán những năm 2006, 2007 đã làm cho nền kinh tế Việt Nam bị bội thực. Hàng loạt các công ty lớn được cổ phần hóa, được IPO đã nhanh chóng biến hàng trăm ngàn nhà đầu tư, cán bộ điều hành trở thành triệu phú.

Trong một ngữ cảnh nào đó, chuyện này giống như nhà nông bán đất hương hỏa hay một anh nghèo bỗng phát hiện ra chiếc bình hoa trên bàn thờ tổ là một cổ vật quý hiếm.

Đối với một nền kinh tế mới lớn như Việt Nam, việc đột nhiên xuất hiện vài trăm ngàn người giàu có cũng nguy hiểm tiềm tàng như cơn bão cấp mười hai đổ vào miền Trung làm vài trăm ngàn người phải chịu cảnh màn trời chiếu đất.

Cơn bão nhiệt đới cướp đi sinh mạng, hủy hoại tài sản, làm mất nhà cửa, khiến cho khan hiếm lương thực và mọi hàng hóa đều trở nên đắt đỏ.

Cơn bão tiền tệ cũng vậy.
Giả sử trong điều kiện kinh tế trước đây, chúng ta có nhu cầu tiêu thụ và khả năng cung cấp một triệu cái bánh mỳ, mười ngàn căn hộ, một ngàn cái xe hơi, … giá cả bình ổn. Thì nay, với làn sóng người giàu lên quá nhanh từ chứng khoán, nhu cầu bỗng dưng tăng gấp đôi, gấp ba.

Trước đây chưa có điều kiện, chúng ta chỉ ăn một cái bánh mỳ, nay rủng rỉnh, ta xơi hai cái. Trước đây ta dự định 3 năm nữa mua nhà, 5 năm nữa mua xe thì nay ta tậu nhà ngay, mua xe gấp cho nó theo kịp thời đại, cho nó bằng bạn bằng bè.

Dòng tiền từ các Quỹ đầu tư nước ngoài liên tục rót vào túi các nhà đầu tư thứ cấp, biến thành xe, thành nhà, thành các món đồ xa xỉ thì nhiều mà thúc đẩy sản xuất thì ít.

Đồng tiền “dễ dàng” đó tạo nên một xã hội giàu có và phồn thịnh giả tạo. Đồng tiền “dễ dàng” làm cho hàng trăm ngàn người giàu lên và cũng làm hàng trăm ngàn người mất đi động lực làm việc.

Chúng ta cứ tưởng tượng, chứng khoán mỗi phiên tăng 5%, một tuần có thể tăng 25% thì liệu trên đời này có một công việc làm ăn chân chính nào bì kịp?

Suy thoái tinh thần làm việc xảy ra ở tất cả các công ty niêm yết, nhiều cán bộ quản lý đã rời khỏi công việc vì bây giờ giàu quá rồi, việc gì phải ép xác làm việc 8 tiếng mỗi ngày mà lương thưởng cả năm không bằng một tuần chứng khoán tăng giá.

Tất cả mọi thứ đều tăng giá, đều trở nên khan hiếm. Giá sinh hoạt tăng vài chục phần trăm, giá nhà đất được đẩy lên vài lần. Một người bạn tôi mua căn biệt thự Phú Mỹ Hưng cách đây 2 năm giá 13 tỷ thì trong cơn sốt rao bán 55 tỷ mà người hỏi mua vẫn nườm nượp. Ai cũng sợ bán rồi thì ngày mai sẽ hớ.

Với đồng tiền dễ kiếm, các đại gia ùn ùn chơi “siêu xe”, chơi “phi cơ”. Tuần nào trên báo chí cũng đăng hình những con xe mới, con sau đắt hơn, xịn hơn con trước và những con xe ở cuối cuộc đua đã trị giá tới 1.5 triệu USD. Sở hữu “siêu xe”, “phi cơ” trở thành niềm tự hào và thể hiện đẳng cấp đại gia. Hàng tỷ USD đã biến thành xe.

Dòng tiền từ các Quỹ đầu tư tạo thành vòng xoáy chứng khoán chảy xiết và cuốn theo mọi đồng tiền nhàn rỗi trong xã hội. Từ bà nội trợ đến anh công chức, ai cũng đổ lên sàn để giành lấy cơ hội cho mình. Ai cũng sợ lỡ chuyến tàu “chứng khoán”, ai cũng mong có dịp đổi đời, ai cũng sẵn sàng dốc túi.

Vòng xoáy khiến mọi chứng khoán đều lên giá ầm ầm, bất chấp công ty đó có ăn nên làm ra, có khả năng hấp thụ đồng vốn, có triển vọng dài lâu. Người bạn làm cho một Quỹ đầu tư thốt lên “Ở Việt Nam, mọi lý thuyết đầu tư đều sai khi nhà nhà lên sàn”.

Hàng ngàn công ty phát hành thêm cổ phần để gọi vốn mà không có trong tay bất kỳ một dự án đầu tư tử tế nào. Phát hành đơn giản là để thu về hàng trăm tỷ, hàng ngàn tỷ “thặng dư vốn”. Các cổ đông cũ, mới đều hỉ hả khi các công ty hứa hẹn sẽ chia cổ phần mới, một đồng ăn n đồng mà không hiểu rằng đó cũng chính là tiền của mình, rằng mình đang tham gia vào một trò chơi “đa cấp”, nơi mà ma mới nộp tiền nuôi ma cũ.

Rồi đến lượt các công ty cũng “choáng váng” khi trong tay có số vốn lớn gấp nhiều lần cùng áp lực phải làm ra tiền nhanh hơn nữa. Cổ đông đều kỳ vọng vào những mức lợi nhuận hàng trăm phần trăm, mức lợi nhuận mà có đi buôn ma túy cũng không được. Không ngành sản xuất thương mại nào có thể đáp ứng nổi cơn thèm này.

Để thỏa mãn cơn khát, các công ty chỉ còn một con đường là đầu tư tài chính, là đầu tư bất động sản, là lập ngân hàng. Các công ty xa rời ngành nghề cha sinh mẹ đẻ của mình để dấn thân vào một lãnh địa mới đầy nguy hiểm, nơi mà thổ công, hà bá còn nhiều hơn những người bình thường.

Hậu quả tất yếu là nền kinh tế nhập siêu ở mức độ chưa từng thấy. Việt Nam đã dịch chuyển quá nhanh từ một nước chân lấm tay bùn thành một xã hội tiêu thụ trong khi vẫn đứng trên một nền tảng sản xuất lạc hậu. Đôi chân đó có thể sẽ không cõng nổi sức nặng của “cái bụng bự”.

Và rồi vòng xoáy bỗng đột nhiên dừng lại sau khi đã cuốn trôi cả những đồng tiền tiết kiệm cuối cùng giấu kín tận đáy tủ. Cơn bão tan, nước rút đi chỉ để lại rác rưởi, dịch bệnh và những con người không còn khí lực, những con người đã hoặc sắp mất hết tài sản.

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2008

Vuong oi

Vuoing oi, sao may kong post bai len nua
Nhung bai do thay co y nghia

Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2008

Tư Duy Tích Cực

Cuộc sống ngổn ngang trăm mối khiến chúng ta đôi khi rơi vào trạng thái stress đầy lo âu và phiền muộn. Cần làm gì để có thể vượt qua những khó khăn này? Bài viết dưới đây sẽ cho bạn một chiếc chìa khoá, hoặc ít nhất qua cách nhìn về tư duy tích cực của tác giả, biết đâu bạn sẽ tìm được chiếc chìa khoá mở cánh cửa Bình an và Hạnh phúc cho riêng mình.

“Hãy nhìn phần nửa đầy của ly nước, thay vì nửa vơi”

Không cần nhờ đến cô hoa hậu hoàn vũ 2005 Natalie Glebova nhắc tới trong đêm chung kết cuộc thi, châm ngôn này và các biến thể của nó vốn dĩ đã khá quen thuộc với chúng ta. Đây chính là một ví dụ sống động và thuyết phục về cách nhìn tích cực một vấn đề. Mặc dù, thực tế nước trong ly chỉ còn một nửa, nhưng người có tư duy tích cực sẽ nhìn vào phần còn của ly thay vì là phần vơi.

Một người thất tình có thể tự dằn vặt bản thân: “Cô ta lừa dối tôi, cô ta phản bội tôi, cô ta lợi dụng tôi”. Nếu là bạn của người đó, tôi sẽ khuyên anh ta hãy học cách quên điều này đi mỗi khi vô tình hoặc cố tình nhớ đến, vì bây giờ nó chỉ là chuyện của cô ta mà thôi. Chuyện của anh là hãy chữa trị nỗi đau mà anh đang phải chịu đựng. Hãy nhìn vào thực tế vấn đề và nếu không đơn giản hóa nó được thì ít ra đừng phức tạp nó thêm. Một người nếu đã rèn được cho mình lối tư duy tích cực sẽ có thể đối mặt với vấn đề này theo cách đại lọai như là: “Thật may mắn vì tôi cũng đã từng có được những tháng ngày hạnh phúc” hoặc “Chúng tôi đã có một thời thật đẹp”.

Tư duy tích cực mang đến sự bình an và thăng hoa cho tâm hồn. Đó là hướng của những người biết cách sống, biết cách yêu thương và biết cách tha thứ cho mình và cho người... Để rồi một ngày khi gặp lại, bạn tôi có thể cười với nàng bằng một nụ cười chúc phúc thay vì ngoảnh mặt đi với sự tức giận vì quá khứ.

Phân loại tư duy

Người ta thống kê rằng mỗi ngày trí óc ta sản sinh ra khoảng 30.000 đến 50.000 ý nghĩ. Trong con số khá lớn này, liệu có bao nhiêu ý nghĩ là có ích và bao nhiêu đã làm mất năng lượng một cách vô ích? Để phân loại chúng, người ta chia ý nghĩ thành bốn nhóm:

Tư duy Tích cực: Là những suy nghĩ có lợi không những cho mình mà cho cả người khác như: tự tin, lạc quan, yêu thương, bao dung, đoàn kết…

Tư duy Tiêu cực: Là những suy nghĩ làm tổn hại đến mình và đến người khác như: tự ti, ganh tỵ, mặc cảm, ích kỷ… “May mà tôi không vớ phải cô ta!” cũng thuộc nhóm câu “Nho trên cành còn xanh lắm!” có lợi cho mình, nhưng không có lợi cho người khác (vì cô ấy đang bị bạn nói xấu).

Tư duy Lãng phí: Là những suy nghĩ “rác”, nghĩ vơ vẩn về những gì đã qua hoặc chưa đến làm tiêu hao năng lượng và mất thời gian của hiện tại.

Một thí sinh trong phòng thi mà lại mơ tưởng đến chuyến đi nghỉ sắp tới hay tưởng tượng thầy giám thị tặng cho đáp án thay vì tập trung vào làm bài thì thật là đang tư duy lãng phí.

Tư duy Cần thiết: Là những suy nghĩ cần thiết về công việc đang phải làm, đang phải giải quyết. Như thầy cô giáo thì phải suy nghĩ về bài giảng, diễn viên suy nghĩ cách nhập vai hay người hùng thì phải nghĩ cách chứng minh điều đó...

Lối tư duy góp phần quyết định chất lượng cuộc sống của mỗi chúng ta.
Tất cả các ý nghĩ sinh ra dù cần thiết hay không, dù tiêu cực hay tích cực thì nó cũng làm ảnh hưởng đến cảm xúc, lời nói và hành động. Và vô hình trung nó cũng sẽ ảnh hưởng hoặc tốt hoặc xấu đến chúng ta tùy theo điểm xuất phát của nó thuộc loại tư duy nào. Mối liên hệ giữa chúng có thể được biểu diễn bằng lược đồ sau:


Một ví dụ: Chồng của Ly hôm nay về muộn. Hai cách phỏng đoán sau đây của Ly sẽ mang tới những kết quả trái ngược nhau.

Cách một: Chắc là lại đi uống rượu với bạn bè? Hay đi hẹn hò với cô thư ký? Hay bị tai nạn xe?…

Cơ thể: nét mặt thể hiện sự lo lắng, căng thẳng, lời nói cáu gắt, đứng ngồi không yên, gọi điện cho hàng xóm, bố mẹ, bạn bè và khi chưa có kết quả thì bất an và giận dữ.

Các mối quan hệ: hàng xóm, bố mẹ và bạn bè cũng bị bận tâm và suy nghĩ về vấn đề của gia đình Ly.

Bầu không khí: trong nhà trở nên căng thẳng, bức bối và nặng nề.

Cách hai: Có lẽ cơ quan có việc đột xuất! Hay gặp gỡ bạn bè để tạo mối quan hệ! Hay về thăm bố mẹ bên ấy!

Chúng ta không bàn về lý do thật sự tại sao chồng Ly về muộn, nhưng rõ ràng là với cách nghĩ tích cực này thì Ly đã không tự tạo một áp lực gì cho mình và cho xung quanh ít nhất là trong khoảng thời gian trước khi chồng về.

Đó là lý do vì sao chúng ta dễ dàng cảm nhận được sự tươi vui ấm cúng khi đến những gia đình hạnh phúc ngược lại sẽ thấy khó chịu và ngột ngạt với bầu không khí thường xuyên xung đột, thiếu vắng sự thương yêu.

Hoặc bạn có thể dễ dàng thấy sự ảnh hưởng tâm trí hoàn toàn khác nhau giữa bầu không khí tại một thánh đường, một thiền viện so với bệnh viện hay một nhà lao.

Nếu nhận thức đúng sự ảnh hưởng cũng như tầm quan trọng của tư duy đối với tự thân và môi trường xung quanh, phải chăng chúng ta cũng cần như các doanh nghiệp uy tín ngày nay, phải cho sản phẩm ý nghĩ qua giai đoạn kiểm tra chất lượng (KCS) trước khi nó thể hiện bằng lời nói và hành động. Cuộc sống sẽ rạng ngời biết bao khi các ý nghĩ của ta đều mang tên “tích cực”.

Stress và cách giảm thiểu stress bằng tư duy tích cực

Ngược lại với tư duy tích cực, cách suy nghĩ tiêu cực cũng mang lại những hậu quả không nhỏ.

“Tiêu cực” không chỉ gồm những suy nghĩ không có lợi cho mình và không có lợi cho người khác. Một cách nhìn nhận sai lệch quy luật cuộc sống hoặc không dám chấp nhận sự thật cũng có thể được xem là tiêu cực. Chứng STRESS (trầm cảm) chính là một hậu quả điển hình của những các ý nghĩ tiêu cực.

Stress của dây đàn là giai đoạn căng quá mức của nó trước khi bị đứt. Kết quả cuối cùng của sự giải thoát khỏi stress là hoặc là điều chỉnh lại độ căng hoặc là để cho nó đứt. Người không muốn thoát hoặc không biết cách thoát khỏi nó một cách đúng đắn nhất thì có thể gọi là người tiêu cực.

Áp lực thật nhiều và đa dạng, và hầu hết chúng ta thường cho rằng áp lực là do môi trường hoặc hoàn cảnh đem lại. Nhưng mức độ STRESS do một áp lực tạo ra sẽ là lớn hay nhỏ, trầm trọng hay nhẹ nhàng lại được quyết định phần nhiều bởi cái cách chúng ta “hứng đòn”. Không có tiếng vỗ của một bàn tay, STRESS lớn lên khi chúng ta không còn đủ năng lượng (sức mạnh nội tâm) để đáp trả cái gọi là “áp lực” trong cuộc chiến đấu mà chúng không hiểu đối thủ là ai.

Vì vậy mức độ Stress mà một người phải chịu đựng có thể được xác định bằng công thức sau:

Nhìn vào công thức trên, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng mình có thể giảm STRESS cho bản thân nếu giảm được áp lực phải gánh chịu và tăng sức mạnh nội tâm.

Chúng ta có thể giảm bớt hoặc loại bỏ một số áp lực về quá khứ hay về tương lai chẳng hạn. Nhiều những chuyện không hay đã qua rồi nhưng chúng ta vẫn ôn đi ôn lại để rồi cảm thấy ray rức, hối tiếc hay thù hận đến mức không muốn hoặc không thể thoát ra được. Và với tương lai cũng vậy…

Các bạn tôi nói rằng những điều tôi vừa chia sẻ đều là lý thuyết. Đúng là như thế! Vậy thì hãy vận dụng nó để xây dựng cuộc sống đẹp và chất lượng hơn. Vấn đề còn lại là thời gian và sự chiêm nghiệm cuộc sống của từng người. Trong thời gian chờ đợi đến khi chúng ta ngộ ra và sống hết mình bằng những loại tư duy đều mang tên “tích cực”, tôi xin chia sẻ với các bạn một phương pháp giảm STRESS bằng “Nguyên tắc S.O.S ” sau đây:

Khi không thích một kênh truyền hình nào đó đang xem thì chúng ta sẽ làm gì? Sẽ chuyển sang kênh khác hoặc là tắt đi. Khi trên đường gặp một vụ kẹt xe?

Chúng ta sẽ dừng lại, quan sát xem chuyện gì đang xảy ra, nếu có thể qua được thì chúng ta sẽ tiếp tục đi về phía trước, nếu không thì quay lại hay tìm một con đường khác. Hãy xử lý tương tự như thế với STRESS. Luôn ghi nhớ rằng bạn luôn có ít nhất một chọn lựa khác. Hãy dừng lại, tạm thời tách mình ra khỏi mớ rối rắm đó, quan sát trên tầm rộng hơn, thoáng hơn, khách quan và lạc quan hơn. Cuối cùng là chọn lựa, hành động và sẵn sàng chịu trách nhiệm với sự chọn lựa đó.

Ngoài ra tôi cũng xin mách nhỏ với các bạn một phương pháp để tăng sức mạnh nội tâm để có thể “chiến đấu tốt” với áp lực bên ngoài đó là luyện tập yoga và thiền định. Những bài tập Yoga sẽ giúp tăng cường sức khỏe, cân bằng tâm lý, tự tin và yêu đời hơn. Và Thiền định là một bước cao hơn, khi bạn tập Yoga đến mức thuần thục thì Thiền định là một bước tiến cuối cùng mà các Yogi không thể bỏ qua. Thiền định sẽ giúp bạn tự chủ hơn, mở rộng cánh cửa yêu thương trong tâm hồn và tiến gần đến chân lý sống. Tuy nhiên tôi vẫn mong bài viết này không có ý nghĩa gì với các bạn cả vì điều đó có nghĩa là các bạn đang sống thực sự hạnh phúc và hoàn toàn tích cực theo công thức riêng của mình.